Chùa Vĩnh Nghiêm được coi là chốn tổ của Phật giáo Việt Nam, chùa mang lại cho du khách sự bình yên khi được chiêm ngưỡng những “bảo vật” của Phật Giáo.
Bên cạnh đó, một ngôi chùa và một tu viện khác mang tên chùa Vĩnh Nghiêm thành phố Hồ Chí Minh được tạo nên lấy nguyên mẫu từ chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang cũng trở thành điểm đến văn hóa tâm linh cho du khách miền Nam.
Bài viết dưới đây, blog du lịch tâm linh WikiKno xin phép giới thiệu về chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang, chùa Vĩnh Nghiêm và Tu viện Vĩnh Nghiêm tại thành phố Hồ Chí Minh!
Chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang : Di tích đặc biệt cấp quốc gia

- Địa chỉ : Thôn Quốc Khánh, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, Bắc Giang
- Tìm đường đến chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang : Google map
Chùa Vĩnh Nghiêm là nơi thờ Phật, đào tạo tăng đồ, thờ Trúc Lâm Tam Tổ: Trần Nhân Tông (1258 – 1308), Pháp Loa (1284 – 1330) và Huyền Quang (1254 – 1334). Chùa là trung tâm đào tạo, định chức danh cho các tăng sĩ thời Trần, là chốn tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử Phật giáo thời Trần nói riêng và lịch sử Phật giáo Việt Nam nói chung. Chùa Vĩnh Nghiêm trở thành chốn an cư, kiết hạ, giảng kinh, thuyết pháp, trụ sở chính thức đầu tiên của Phật giáo Việt Nam.
Theo các nguồn tư liệu, như bia ký, thư tịch cổ còn lưu lại, chùa Vĩnh Nghiêm do Phật Hoàng Trần Nhân Tông trung hưng trên nền móng của một ngôi chùa nhỏ có từ thời Lý (chùa Chúc Thánh) vào cuối thế kỷ XIII, là ngôi chùa có vị trí đặc biệt trong các ngôi chùa thuộc Thiền phái Trúc Lâm (Yên Tử). Từ Trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm, tư tưởng của dòng thiền này lan rộng khắp các miền trong cả nước và lan tỏa ra khu vực và thế giới
Chùa Vĩnh Nghiêm (Chùa Chúc Thánh, Chùa La, chùa Ông La, chùa Đức La) thuộc địa bàn xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, ở vị trí đắc địa theo thế phong thủy của người xưa“đầu gối sơn, chân đạp thủy”. Phía trước chùa là ngã ba Phượng Nhỡn, nơi hợp lưu của sông Thương và sông Lục Nam, phía sau là dãy núi Cô Tiên, con Voi, con Lân huyền thoại, hai bên tả hữu là cánh đồng xanh tốt và khu dân cư trù mật… Chùa Vĩnh Nghiêm có bố cục mặt bằng kiến trúc nằm dọc theo trục Nam – Bắc đăng đối, hài hòa, quay hướng Đông Nam, gồm nhiều đơn nguyên kiến trúc tạo thành một thể thống nhất, trong đó tiêu biểu:
Tam quan
Xây chồng diêm gồm 1 gian, 2 chái, với hai tầng tám mái đao cong. Bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt, bờ dải tạo hình nghê chầu. Các đầu đao được đắp trang trí hình đầu rồng và con xô. Trước cửa Tam quan có đôi rồng đá. Kết cấu khung vì mái gồm 4 hàng chân cột, liên kết ở hai vì mái theo kiểu thức con chồng trụ giá chiêng, trên các cấu kiện có chạm nổi đề tài hoa lá.
Tam bảo
Nối với Tam quan bởi đường chính đạo dài khoảng 100m, rộng 4m lát gạch vuông, bó vỉa bằng những khối đá xanh. Phía trước Tam bảo là khoảng sân rộng, lát gạch vuông đỏ. Bên phải góc sân đặt một tấm bia đá hình lục lăng niên hiệu Hoằng Định thứ 7 (1606) với nội dung ghi việc tu sửa chùa. Tam bảo có kiến trúc theo kiểu chữ công (工) gồm: Tòa Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện.
Tiền đường: là công trình kiến trúc có quy mô lớn nhất trong hệ thống các khối kiến trúc chùa. Toàn bộ mặt trước nền được bó vỉa bởi các phiến đá. Hệ mái tiền đường cao hơn 7m, lợp ngói mũi hài, kết cấu theo kiểu đao tàu, kẻ góc, để trống đầu hồi. Bờ nóc, bờ chảy gắn hoa chanh, chính giữa đắp hình cuốn thư trong đề ba chữ “Vĩnh Nghiêm tự”. Cả 7 gian phía trước tiền đường đều tạo cửa gỗ kiểu ván đố lụa soi vỏ măng và bức bàn chân quay. Hai gian ngoài cùng có trổ cửa sổ kiểu chấn song bằng gỗ lim. Nền Tiền đường cao hơn so với sân 0,62m được nện bằng đất theo kỹ thuật dân gian. Tòa Tiền đường kết cấu 5 gian, 2 chái, 8 vì, mỗi vì 4 hàng chân cột. Liên kết 8 vì mái đều theo kiểu thức chồng rường, trụ giá chiêng, thượng tam, hạ tứ. Tất cả các cấu kiện kiến trúc đều làm bằng gỗ lim chắc khỏe, chạm khắc hoa văn lá lật, hoa dây, hoa lá cách điệu. Bên trong tòa tiền đường được bài trí một số pho tượng Phật tiêu biểu như Đức Ông, Thánh hiền, Hộ pháp, Tứ trấn… cùng các bức hoành phi, câu đối và đồ thờ có giá trị.
Thiêu hương: tường xây gạch chỉ, để mộc, mái lợp ngói mũi hài. Bờ nóc gắn dải hoa chanh, nền đất nện. Tòa Thiêu hương có kết cấu 3 gian, 4 vì, mỗi vì 4 hàng chân cột. Liên kết 4 vì nóc theo kiểu thức chồng rường, giá chiêng, vì nách kiểu con chồng, đấu kê, các cấu kiện chạm khắc hình hoa lá cách điệu.
Thượng điện : có 1 gian, 2 chái, 4 vì, mỗi vì bốn hàng chân cột. Liên kết bốn vì mái theo kiểu thức kèo cánh ác có trụ trốn với ván định thiên ở trên câu đầu, dưới con chồng trụ đấu kê – xà, nách – kẻ. Các cấu kiện kiến trúc đều được làm bằng gỗ lim, bào trơn đóng bén. Trong Thượng điện được bài trí đầy đủ hệ thống tượng Phật, các kệ tủ đựng mộc bản và các đồ thờ tự.

Nhà Tổ đệ nhất
Hay còn được gọi Cung Tổ hay Cung Thánh Tổ là nơi thờ Tam tổ, có kiến trúc theo lối chữ công (工) gồm Đại bái, Ống muống và Hậu cung – đặc trưng kiến trúc thời Lê (thế kỷ XVII – XVIII).
Đại bái: tường xây gạch chỉ, bắt mạch, để mộc. Bờ nóc có gắn dải hoa chanh, chính giữa tạo hình cuốn thư, trong đắp nổi bốn chữ Hán: “Trúc Lâm Thanh Giáo”. Hai bên hồi bờ nóc đắp trang trí hai con kìm ngậm vào đầu bờ nóc, đuôi vểnh cong. Cửa kiểu bức bàn. Hai gian chái và hai bên hồi có vách làm theo kiểu đố lụa bằng gỗ. Nền nhà lát bằng gạch vuông truyền thống. Đại bái có 5 gian, 6 vì, mỗi vì bốn hàng chân cột. Liên kết 6 vì mái có kết cấu khác nhau: hai vì gian giữa được gắn kết theo kiểu thức vì kèo cột ván (kèo tam giác), kẻ suốt. Các vì còn lại được gắn kết theo kiểu chồng rường, có trụ đặt trên xà nách, đỡ hệ thống kẻ góc. Các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ lim, chạm nổi hình hoa, lá cách điệu. Ở gian giữa trên xà dọc treo bức hoành phi chữ Hán: “Di Đà Phật”. Hai bên cột cái treo đôi câu đối chữ Hán. Bên trái đặt tấm bia đá xanh cao gần 2m, rộng hơn 1m, niên hiệu Bảo Đại thứ 7 (1932). Ngoài ra, Đại bái còn bài trí ban thờ Mẫu Thượng Thiên, tượng Quan Án và các đồ thờ tự khác.
Ống muống: tường xây gạch, bắt mạch, để mộc. Mái lợp ngói mũi. Bờ nóc xây gạch phủ áo vữa có gắn dải hoa chanh. Nền lát gạch vuông truyền thống. Ống muống tạo bởi 2 gian, 3 vì, mỗi vì bốn hàng chân cột. Hai vì mái gian trước được gắn kết theo kiểu thức vì kèo cột ván, vì gian trong gắn kết kiểu giá chiêng. Các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ lim, chạm nổi hình hoa văn lá lật.
Hậu cung: tường xây gạch chỉ, miết mạch, để mộc, mái lợp ngói mũi. Bờ nóc, bờ dải xây gắn dải hoa chanh, bờ nóc đắp trang trí kìm. Nền lát gạch bát. Hậu cung tạo bởi 1 gian, 2 chái, 2 vì, mỗi vì bốn hàng chân cột. Hai vì nóc được gắn kết giống nhau theo kiểu thức vì kèo cột ván, vì nách kiểu bán giá chiêng. Các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ lim. Nét độc đáo của hạng mục kiến trúc này thể hiện ở phía vách hậu cung làm bằng gỗ theo kiểu đố lụa. Chính giữa Hậu cung bố trí ban thờ Tam tổ Trúc Lâm và tượng Thần Độc Cước, Tôn Ngộ Không.
Giá trị kiến trúc được thể hiện rõ nét trong khối kiến trúc nhà Tổ đệ nhất ở bộ khung gỗ mang nhiều nét điêu khắc thời Lê (thế kỷ XVII – XVIII). Đặc biệt, tại các ván dong chạm nổi hình vân mây cụm nhỏ, gọi là mây linh chi thời Lê, các đầu bẩy được chạm lá lật, lá vân có đuôi dài uốn sóng, nét chạm mập mạp. Đây là những đồ án trang trí mà ta hay gặp trên kiến trúc gỗ thế kỷ XVII, XVIII ở đình chùa xứ Bắc như đình Vường, đình Nội (Tân Yên), chùa Vân (Việt Yên)…
Gác chuông
Nằm theo trục dọc, phía sau nhà Tổ đệ nhất và phía trước nhà Tổ đệ nhị. Gác chuông có bình đồ kiến trúc gần vuông, xây chồng diêm 6 mái cao gần 8m chia làm hai tầng: Tầng trên có sàn gỗ, giữa treo một quả chuông lớn, tầng dưới dùng làm nơi tiếp khách. Theo nội dung bia ký cả gác chuông và quả chuông đều được tạo tác vào đầu thế kỷ XIX. Trải qua thời gian, gác chuông đã tu bổ nhiều lần, song đây vẫn là một kiến trúc đẹp với đao tàu kẻ góc và sự kết hợp hài hòa giữa các chất liệu gỗ và gạch ngói. Các mảng chạm khắc trên cấu kiện thể hiện đặc trưng phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Nhà Tổ đệ nhị
Có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ nhị (=) gồm tòa Bái đường 11 gian chạy song song với tòa Hậu cung 3 gian phía sau và được liên kết với nhau bởi một máng xối.
Bái đường: kiến trúc đầu hồi bít đốc với hai mặt mái lợp ngói mũi. Bờ nóc đắp kìm. Tường xây gạch chỉ, hai đầu hồi xây hai cột đồng trụ, trên đắp tứ phượng. Phần hiên rộng hơn 1m, lát gạch bát, bó vỉa đá thanh. Nền nhà cao hơn sân 0,2m, lát gạch bát. Toàn bộ 9 gian bên trái tạo cửa gỗ lim kiểu thượng song hạ bản. Phần liên kết vì mái kiểu bán giá chiêng, kẻ truyền. Các cấu kiện kiến trúc không chạm khắc, riêng hệ thống đầu bẩy hiên chạm nổi hình lá cách điệu, mang phong cách thời Nguyễn (thế kỷ XIX).
Hậu cung : tường xây gạch, mái lợp ngói mũi. Nền lát gạch vuông đỏ. Hậu cung có kết cấu 3 gian, bốn hàng chân cột. Liên kết vì nóc gắn kết theo kiểu thức con chồng, trụ giá chiêng, vì nách kiểu ván mê. Các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ lim, chạm nổi hoa lá cách điệu. Bên trong bài trí hệ thống tượng Tổ kế thế qua các thời kỳ như tượng Thiền Gia Pháp Chủ Thích Thanh Hanh, Hòa Thượng Trần Như, Hòa Thượng Thích Tâm Duyệt…
Ngoài 5 tổ hợp kiến trúc chính, chùa Vĩnh Nghiêm còn các công trình Nhà Mẫu, Nhà in Kinh, Hai dãy Hành lang Đông – Tây, Vườn tháp.
Vườn tháp
Bao gồm có 9 tháp, là nơi đặt xá lỵ của các sư tổ kế thế trụ trì ở chùa, như Tịnh Phương Sa Môn pháp húy Tâm Viên, Hòa thượng Phù Lãng Trung hiệu Sa Môn – Thông Duệ – Ứng Duyên…
Chùa Vĩnh Nghiêm có số lượng hiện vật phong phú, đa dạng mang giá trị về lịch sử, thẩm mĩ, khoa học, văn hóa, tiêu biểu như: Hệ thống bia đá, văn khắc (gồm 07 bia đá, 05 văn khắc trên tháp mộ, 01 văn khắc trên chuông, được soạn, khắc, dựng từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX); hệ thống hoành phi câu đối; Hệ thống tượng Phật-là những tác phẩm điêu khắc đẹp mang giá trị mỹ thuật tiêu biểu của thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Đặc biệt, chùa Vĩnh Nghiêm còn lưu giữ 3.050 mộc bản có giá trị trên nhiều lĩnh vực, có thể phân làm 03 dạng bản khắc chủ yếu: Kinh Luật có khung viền quanh lề trang sách; những bản khắc có phần chữ xen họa đồ; những bản khắc “Lục thù”, “bùa chú” dùng trong ma chay và những nghi lễ tôn giáo… Với những giá trị tiêu biểu, ngày 16/5/2012 Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đã được tổ chức UNESCO ghi danh là Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Trước đây, lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm (chùa La) được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng Mười Một (Âm lịch), nhân dân trong vùng gọi là tiết lệ chùa La – ngày hóa của Giác hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông. Ngày nay, Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được tổ chức vào ngày 14 tháng Hai (Âm lịch) – là ngày giỗ chung của các vị Tổ chùa Vĩnh Nghiêm, với sự tham gia của nhiều làng, xã, phản ánh sự ảnh hưởng của Phật giáo và các vị Tam Tổ của Thiền phái Trúc Lâm trong đời sống nhân dân trong vùng. Ngày 09/9/2013, Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia.
Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Vĩnh Nghiêm (huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2367/QĐ-TTg, ngày 23/12/2015)./.
Chùa Vĩnh Nghiêm (Thành phố Hồ Chí Minh)

- Địa chỉ : 339, Nam Kỳ Khởi Nghĩa (gần cầu Công Lý), Phường 7, Quận 3, Tp. HCM
- Tìm đường đến chùa Vĩnh Nghiêm Tp. HCM: Google map
Khái quát lịch sử hình thành
Từ miền Bắc, hai Hòa thượng là Thích Tâm Giác và Thích Thanh Kiểm vào miền Nam truyền bá đạo Phật, và sau đó đã cho xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm. Họ lấy nguyên mẫu thiết kế từ một ngôi chùa gỗ cùng tên ở làng Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Kiến lập từ đời vua Lý Thái Tổ, vốn là trung tâm truyền bá Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm.
Người vẽ kiểu cho công trình là kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng, có sự cộng tác của các ông Lê Tấn Chuyên và Cổ Văn Hậu…
Chùa được khởi công năm 1964 tại khu đất thấp nằm bên rạch Thị Nghè, và người ta phải chuyển khoảng 40.000 m³ đất từ xa lộ Biên Hòa về san lấp mặt bằng. Kinh phí xây dựng chùa khoảng 98 triệu đồng tiền lúc bấy giờ, với phần khuôn viên được cho là chính quyền VNCH cấp. Năm 1971, chùa Vĩnh Nghiêm cơ bản hoàn thành với các hạng mục, gồm tòa nhà trung tâm (tầng trên có ngôi Phật điện), Bảo tháp Quán Thế Âm, cơ sở dành cho hoạt động xã hội. Về sau, chùa lần lượt xây thêm các công trình khác, như Bảo tháp Xá Lợi Cộng đồng, Tháp đá Vĩnh Nghiêm, Phương trượng đường, khách đường, v.v…
Riêng quả Đại hồng chung có tên là “Chuông Hòa bình” thì do chùa Entsu-in (Viên Thông viện), huyện Fukushima thuộc Giáo hội Phật giáo Nhật Bản cung tiến.
Hiện nay, khuôn viên của chùa vào khoảng 6.000m2, bao gồm 3 khu chính là Tam Quan, Tòa nhà trung tâm và các Bảo tháp. Kiến trúc mái ngói cong vút, từng đường khắc, chạm trổ đều tỉ mỉ và tinh tế.
Chùa có những gì ?
Cổng Tam quan

Tam Quan là công trình kiến trúc đồ sộ theo kiểu truyền thống với mái ngói đỏ uốn cong. Từ đây, du khách được ngắm nhìn bao quát khung cảnh bên trong của ngôi chùa. Sân chùa rộng mênh mông, đối diện với cổng Tam quan là Tòa nhà trung tâm và bên trái của sân chùa là ngôi bảo tháp 7 tầng.
Tòa nhà trung tâm
Đây là công trình kiên cố và uy nghiêm bao gồm 1 tầng lầu và 1 tầng trệt.
Tầng trệt có 2 phần: phần ngoài nằm bên dưới sân thượng (cao 3,20m) và phần trong nằm dưới Phật điện (cao 4,20m). Bên trong được chia thành nhà thờ Tổ (có bàn thờ Bồ Đề Đạt Ma), giảng đường, văn phòng, thư viện, phòng tăng, lớp học và phòng học.

Từ sân chùa, cầu thang 23 bậc dẫn lên tầng lầu của tòa trung tâm bao gồm sân thượng, Phật điện và Tháp Quan Thế Âm.
Sân thượng rộng khoảng 10m, phía tay phải có một gác chuông và treo một đại hồng chung.

Phật điện bao gồm 3 phần: Bái Điện, Bản Điện và Địa Tạng Đường. Kiến trúc được xây theo kiểu chữ công. Góc mái đều được uốn cong theo kiểu chùa miền Bắc.

Bái Điện nguy nga dài 35m, rộng 22m và cao 15m. Chính giữa điện là bàn thờ Phật Thích Ca, bên trái có Bồ Tát Văn Thù và bên phải là Bồ Tát Phổ Hiền. Các công trình trạm khắc gỗ ở đây có bao lam tứ linh, bao lam cửu long và đặc biệt là các phù điêu trên các hương án chạm các ngôi chùa danh tiếng ở trong nước và một số nước Châu Á. Ở hàng hiên hai bên lối vào, mỗi bên có một pho tượng Kim Cang khá lớn.
Tháp Quan thế âm

Nằm ngay bên trái khi đi từ cổng chùa vào gồm 7 tầng và cao gần 40m. Đây là một trong những ngôi tháp đồ sộ nhất Việt Nam.
Tháp Xá Lợi Cộng đồng

Được xây thêm vào năm 1982 có 4 tầng cao 25m. Đây là nơi để lọ đựng tro thi hài người chết mà người nhà họ gửi và giữ gìn ở chùa.
Tháp đá Vĩnh Nghiêm

Bạn sẽ nhìn thấy tháp ở bên tay phải ngay khi bước vào chùa, được xây vào năm 2003 để thờ cố Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Kiểm – một trong hai vị cao tăng sáng lập ra chùa. Và đây là ngôi tháp đá đầu tiên miền Nam cũng như đứng trong danh sách những ngôi tháp đá lớn nhất, cao nhất Việt Nam.
Không khí ở chùa Vĩnh Nghiêm giúp con người ta khi bước chân vào cảm thấy lòng mình thanh tịnh và bình yên, không xô bồ, vồn vã giữa chốn đông người.
Tu viện Vĩnh Nghiêm
Tu viện Vĩnh Nghiêm là một trong những nơi giảng dạy Phật pháp nổi tiếng ở Sài Gòn. Nơi đây mang nét kiến trúc như một cung đình Huế xưa với diện tích rộng cùng vẻ đẹp cổ kính.
- Địa chỉ : Phường Hiệp Thành, Quận 12, Tp. HCM;
- Tìm đường đến Tu viện Vĩnh Nghiêm : Google map
Tu viện được cố Hòa thượng Thích Tâm Giác (1917-1973) khai sơ vào năm 1971 với mục đích làm tu viện và nghĩa trang Vĩnh Nghiêm.
Kế tiếp đèn Thiền, thực hiện di nguyện của Thầy Tổ, Thượng tọa Thích Thanh Phong, Trụ trì đời thứ ba của Tổ đình Vĩnh Nghiêm, lại tiếp tục hoàn thiện các thủ tục xây dựng cho đến năm 2009 được cấp giấy phép. Thầy Giác Dũng được Tổ đình giao trách nhiệm trông coi việc xây dựng Tu viện.

Tu viện Vĩnh Nghiêm (quận 12, TPHCM) được khánh thành vào ngày 20/10/Canh Tý (4/12/2020) – ngày viên tịch của Hòa thượng Thích Tâm Giác, khai sơn chùa Vĩnh Nghiêm (quận 3).
Tu viện Vĩnh Nghiêm cũng là cơ sở 3 của Học viện Phật giáo Việt Nam tại TPHCM, với diện tích khoảng 17.000m2. Tu viện được mô phỏng theo mô hình của một ngôi già lam tiêu biểu của Phật giáo: Phật điện (chánh điện), Tổ đường, tháp chuông, tháp Quan Âm, trai đường, giảng đường, Đông đường, Tây đường, tam quan…


Nơi đây không chỉ là ngôi chùa tâm linh mà còn là công trình văn hóa hết sức tinh tế. Thượng tọa Thích Giác Dũng, Tu viện trưởng Tu viện Vĩnh Nghiêm chia sẻ, những hoa văn chạm trổ trong tu viện đậm nét truyền thống.
Các công trình bằng gỗ được thiết kế theo kiến trúc cổ đồng bằng Bắc bộ: Mái đao cong vút, nhẹ nhàng uyển chuyển; lan can đá của gam màu xanh hoài cổ; cửa bức bàn điêu khắc tứ linh; Phật tượng uy nghiêm thoát tục…

Hình ảnh “phi thiên” vốn phổ biến ở nhiều di tích dọc con đường tơ lụa, mang dấu ấn văn hóa Trung – Ấn, nhưng trong công trình Tu viện Vĩnh Nghiêm lại được chạm trổ theo khuôn mặt Việt Nam và mặc áo tứ thân.
Những câu đối, hoành phi thuần Việt
Với mong muốn “văn dĩ tải đạo”, chữ Việt được lựa chọn để tạo nên những bức hoành phi, câu đối. Bởi hiện nay, tiếng Việt là ngôn ngữ chính của dân tộc và người hiểu chữ Hán giờ còn mấy ai hiểu được.
Hoành phi, câu đối ngoài việc trang trí còn để chuyển tải nội dung Phật pháp. Phật tử tới chùa đọc hiểu câu kinh, lời hay ý đẹp, mới có ích trong việc tu tâm dưỡng tính.

Vì vậy, trong Phật điện và khắp ngôi chùa, người đến viếng chùa có thể đọc được những câu đối, chữ bằng tiếng Việt, đặc biệt là những lời dạy của Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Hơn 700 năm trước, Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308) đã tiên phong trong việc sử dụng chữ Nôm thông qua tác phẩm Cư trần lạc đạo phú. Những câu văn biền ngẫu của Ngài thật hay, đối rất chỉnh.

“Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương; Di Đà là tánh sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc”. Đây là hai câu phú trong bài Cư trần lạc đạo phú của Sư tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông, vị sáng tổ của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền mang đậm đà bản sắc Việt Nam.
Bên cạnh đó, ngành nghề dựng nhà gỗ và chạm trổ hoa văn có lẽ sẽ thất truyền trong một thời gian ngắn nữa vì nguyên vật liệu không còn và con người cũng không còn theo đuổi truyền thừa.
Do đó, Tu viện Vĩnh Nghiêm đã cố gắng tối đa thực hiện các công trình gỗ thật chu đáo và tỉ mỉ. Những họa tiết truyền thống như mai, lan, cúc, trúc; long, ly, quy, phụng… được chạm trổ mang theo văn hóa Việt Nam thời hiện đại.
Ngay cả tượng pháp, các sư thầy của tu viện Vĩnh Nghiêm cũng cho đục đẽo, chạm khắc tại Việt Nam.
Thầy Giác Dũng chia sẻ, các bức tượng cũng được chế tác trong nước bởi bàn tay người thợ Việt. Nhiều năm sau đó nữa, những người dân Việt sẽ tự hào về công trình văn hóa Phật giáo mang tâm hồn Việt.
Sớm chiều hai buổi, lời kinh ngân vang cùng nhịp chuông mõ, những lời kinh khấn nguyện mưa thuận gió hòa, tật bệnh tiêu trừ, quốc thái dân an, người người an lạc.
Tài liệu tham khảo cho bài viết này :